“Khi còn bé, niềm đam mê lớn nhất của tôi là câu cá hồi ở những con suối trên núi nguyên sơ vùng New England. Câu cá đầy thách thức và thú vị, cá hồi suối ở đây không lớn lắm có thể do dòng suối cao nguyên lạnh giá. Tôi luôn kinh ngạc và thán phục về một con cá hồi nâu lớn treo trên tường trong căn nhà gỗ của gia đình chúng tôi, nó được một người bạn của ông tôi câu lên và tặng lại. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một con cá hồi lớn như vậy. Tôi nhớ lời người bạn của ông nói lại, ông ấy đã kể cho tôi biết ông ấy đã câu được con cá ở đâu và như thế nào, và ông ấy đã dùng mồi gì để bắt nó. Ông đã tặng lại cho tôi con mồi đó, và tôi rất vui khi nhận được món quà. Tôi trân trọng nó và sử dụng nó để bắt rất nhiều cá trong nhiều năm. Có thể đoán trước được, con mồi cũng trở thành một nạn nhân, nó mất tích vào một ngày đi câu không đẹp. Nhưng, kể từ đó, tôi luôn chắc chắn rằng trong kho vũ khí của mình luôn có con mồi giả cùng kích thước và màu sắc như thế. Đó là mộtr trong những con mồi giả hiệu quả nhất mà tôi từng sở hữu: mồi Rapala Floating Minnow” – John D. Silva
“Original Floating Rapala” được tạo ra vào những năm 1930 bởi ngư dân Phần Lan có tên là: Lauri Rapala. Trong khi câu cá ở vùng nước yêu thích của mình, hồ Paijanne ở Phần Lan, anh ấy nhận thấy cách những con cá săn mồi vây bắt và tấn công những đàn cá nhỏ, làm phân tán những con cá khỏe mạnh và tấn công những con yếu hơn khi chúng gặp khó khăn và muốn nhập lại đàn. Con mồi cuối cùng thường bỏ mạng với những chuyển động bơi chậm chạp, thất thường. Lauri chợt nhận ra rằng loài cá săn mồi đã nhắm vào chuyển động thất thường này như một cách để xác định những con cá mồi chậm chạp, bị thương và dễ bắt. Điều này khiến anh ta suy nghĩ về cách bắt chước hành động đó và tận dụng những xu hướng săn mồi đó. Nếu anh ta có thể nghĩ ra một cách bắt chước phù hợp, anh ta có thể bắt và bán được nhiều cá hơn đồng thời tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
Trở về ngôi làng của mình, Lauri lấy một con dao thợ đóng giày bắt tay vào gọt đẽo một khúc gỗ thông đỏ. Anh ta cạo và chà nhám mảnh gỗ cho đến khi nó bắt đầu giống một con cá mồi nhỏ. Anh ấy quấn một mảnh giấy bạc từ thanh sô cô la xung quanh bề mặt bên ngoài, sau đó nấu chảy nhựa rồi tráng lên xung quanh con mồi để tạo ra một lớp phủ bảo vệ. Để con mồi nhử lặn xuống, anh ta đã nghĩ ra một giải pháp thông minh: một chiếc thìa nhựa gắn vào mũi mồi nhử. Nguyên mẫu minnow khả thi đầu tiên được hoàn thành vào năm 1936, Lauri ngay lập tức đưa nó vào sử dụng và thương mại. Con mồi hoạt động rất ổn định và bắt cá rất tốt. Chẳng mấy chốc, các thông tin và lời đồn về nó được lan truyền trong giới câu câu cá, Original Floating Rapala như là một phát minh đỉnh cao về mồi Minnow. Mark Fisher, giám đốc quảng bá của Rapala cho biết: “Sứ mệnh của anh ấy bắt đầu bằng việc nuôi sống cho gia đình – anh ấy cố gắng đánh bắt thật nhiều cá”. “Người ta đã công nhận anh ta là một tay câu cừ khôi vì mồi câu của anh ta hoạt động hiệu quả. Sự hiểu biết của anh ấy về các loài cá săn mồi là rất tuyệt và việc anh ấy là người có thể kích hoạt được phản ứng tấn công từ cá săn mồi, thực sự là một loại độc nhất vô nhị.” Theo truyền thống, ngư dân Phần Lan thời đó thường không câu cá, họ quăng lưới. Lauri gia nhập Quân đội Phần Lan trong Thế chiến II. Trong thời gian làm việc, ông đã cung cấp cá cho một số binh sĩ trong đại đội của mình. Sau chiến tranh, Lauri trở về ngôi làng nhỏ của mình ở Phần Lan và tiếp tục sống cuộc sống bình dị. Nhưng khi đó, danh tiếng của ông như một tay câu cá chuyên nghiệp đã được nhiều người biết đến. Fisher nói: “Điều thú vị là mỗi ngôi làng ở Phần Lan đều có một tay câu cá giỏi hơn những người khác. “Giống như ngày nay, ở mỗi hồ đều có một hướng dẫn viên nổi bật hoặc một tay câu cá rất giỏi nổi bật, người được mọi người chú ý đến, điều đó cũng tương tự đối với những người câu cá thương mại vào những năm 30s. Họ biết rõ ai là ai và ai giỏi hơn một chút. Và chắc chắn một điều, Lauri Rapala là người dẫn đầu.” Thiết kế con mồi độc đáo đem đến danh tiếng cho Lauri. Một nhóm doanh nhân Phần Lan gồm các thành viên trong một câu lạc bộ câu cá thường đến làng của ông đã thử chơi những con mồi. Sau đó, họ quyết định mang một vài mẫu về Helsinki, giới thiệu rộng rãi và các cơ hội bắt đầu xuất hiện. Với danh tiếng ngày một tăng kể từ đó, Lauri và gia đình ông quyết định sản xuất mồi giả để bán. “Mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm những công đoạn nhất định” – Fisher kể – “Người thì chạm khắc, người thì đánh bóng, người khác sẽ tinh chỉnh lại chi tiết”. Ngay cả khi không có những máy móc hay công cụ hiện đại, họ vẫn có thể tận dụng những dụng cụ trong gia đình để làm. Chất liệu được sử dụng dần chuyển từ vỏ cây thông và phim âm bản sang gỗ balsa và sơn mài. Fisher giải thích: “Chúng tôi phát hiện ra gỗ balsa là một loại nguyên liệu rất bền mà lại dễ gia công. Quan trọng nhất là, trong tất cả các loại gỗ, nó là loại “sống động nhất”, rất nhẹ mà lại bền”. Khi sản lượng bắt đầu có thể tăng lên, họ đã chế tạo ra những chiếc máy từ các thiết bị gia dụng của gia đình đẩy nhanh quá trình sản xuất. Cuối những năm 1950, một giám đốc bán hàng từ Minnesota – người cũng đang kinh doanh đồ câu – đến Canada để đi câu và được trải nghiệm con mồi lure Rapala. Nắm bắt cơ hội, vị giám đốc này – Ronald W. Weber – đã lập tức liên hệ với Lãnh sự quán Phần Lan để yêu cầu trở thành đại diện quốc tế độc quyền cho con mồi đó. Năm 1959, ông ký hợp tác với Ray Ostrom và với sự hỗ trợ từ Lauri Rapala, họ cùng nhau thành lập Tập đoàn Normark và bắt đầu bán con mồi Rapala tại Hoa Kỳ. Weber tin tưởng vào sự thành công của con mồi đến mức dồn tất cả tiền tiết kiệm cả đời để xây dựng một nhà máy ở Phần Lan để mở rộng sản xuất. Fisher chia sẻ: “Tôi nghĩ điều thú vị ở đây là ba người bạn đến từ những nơi rất khác nhau trên thế giới, thậm chí không quen biết trước, đã đạt được một thỏa thuận thực sự thay đổi bộ môn câu cá này. Không chỉ vậy, còn có rất nhiều những người khác đã đến từ hơn 140 quốc gia để làm việc cho chúng tôi. Thật đáng kinh ngạc!”. Bước đột phá lớn nhất của Rapala đến vào năm 1962 khi tạp chí LIFE đăng một bài báo về Lauri và những con mồi giả của ông. Ấn bản này tình cờ lại có một nội dung về cuộc đời nữ minh tinh Marilyn Monroe vừa qua đời, dẫn đến một doanh số phát hành kỉ lục trong lịch sử ngành tạp chí. Tình cờ lại đến đến cơ hội quảng bá vô giá cho Rapala. Ngày nay, mồi Rapala được làm từ nhựa balsa của Ecuador, được chạm khắc bằng máy và hoàn thiện với 12 lớp sơn và epoxy. Công ty còn phối hợp chặt chẽ với nông dân trồng cây balsa để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu. Fisher cho biết: “Công tác kiểm tra dung sai về mật độ của gỗ balsa là rất quan trọng. Chúng cần nhiều năm để phát triển trước khi có một mật độ gỗ thích hợp để làm ra con mồi chất lượng”. Rapala sử dụng 5% nguyên liệu chọn lọc kỹ lưỡng nhất để làm ra 2 con mồi: Original Floating Minnow và The Shad Rap. Phần còn lại thì cần được kết hợp với các thành phần bổ sung để hoàn thiện chất liệu. Sau khi hoàn thành, mỗi con mồi được thử nghiệm trong bể riêng và chỉnh sửa bằng tay để đảm bảo dáng bơi hoàn hảo. Fisher mô tả: “Chúng tôi có 40 dây chuyền với những kỹ thuật viên kiểm định những con mồi của mình”. Trong những năm qua, Rapala đã mở rộng những dòng mồi của họ với Countdown, Shad Rap, Rattlin’ Rapala, Fat Rap, Magnum, Husky Jerk và Tail Dancer và nhiều dòng khác… Họ sản xuất gần 20 triệu con mồi mỗi năm và bán trên 140 quốc gia trên thế giới. Các nhà máy trải rộng ở Phần Lan, Ireland, Pháp, Trung Quốc và Estonia. Fisher nói: “Tôi cho rằng, đôi khi công việc của bạn không chỉ là một nghề nghiệp, mà quan trọng đó là một cách sống. Tôi nghĩ rằng việc duy trì và phát triển một di sản có từ những năm 1930 đến ngày nay, đã trở thành một doanh nghiệp lớn với khả năng cạnh tranh đáng nể trên thị trường là một điều vĩ đại mà gia đình Rapala đã xây dựng được”. Ngày nay, mồi Minnow là một trong các loại mồi bán chạy nhất trên Thế Giới với đa dạng mẫu mã, chủng loại, màu sắc. Mồi Minnow và Jerkbait thường gồm 3 loại sau: Tùy theo mong muốn khả năng lặn sâu mà loại mồi này có thìa (môi) dài hay ngắn. Tùy vào thời tiết và môi trường nước tại điểm câu mà ta có thể chọn lựa một cách thích hợp nhất con mồi cần sử dụng.XEM CÁC MẪU MỒI MINNOW TẠI ĐÂY
– Floating: loại mồi nổi khi quăng xuống nước và nổi lên mặt nước khi ngừng thu dây
– Suspending: loại mồi nổi lơ lửng ở trong nước khi ngừng thu dây
– Countdown: loại mồi chìm xuống đáy khi ngừng thu dây